- Trẻ em, đặc biệt trẻ sơ sinh, đáp ứng với thuốc khác người lớn. Cần đặc biệt thận trọng ở giai đoạn sơ sinh (30 ngày đầu, nhất là tuần đầu sau khi đẻ), liều lượng phải tính toán thật chính xác. ở thời kỳ này, nguy cơ ngộ độc thuốc tăng lên nhiều do thận lọc kém hiệu quả, các enzym tương đối thiếu hụt, tính nhạy cảm với thuốc của các cơ quan đích rất khác nhau và đặc biệt hệ thống khử độc chưa hoàn chỉnh gây đào thải chậm. Trong các chuyên luận đều có ghi liều dùng cho trẻ em hoặc khi có chống chỉ định. Nếu không ghi, có nghĩa là liều chưa được xác định cho trẻ em, nên khi dùng, thầy thuốc phải cân nhắc, thận trọng.
- Người đang mang thai hoặc đang thời kỳ cho con bú: Thuốc có thể gây hại cho thai nhi ở bất cứ thời điểm nào trong thời kỳ mang thai. Trong 3 tháng đầu, thuốc có thể gây dị tật (quái thai) và thời kỳ có nguy cơ cao nhất là từ tuần thứ ba đến tuần thứ mười của thai kỳ. Trong quý hai và quý ba của thai kỳ, thuốc có thể tác động đến sức lớn và phát triển các chức năng của thai nhi; ngay trước lúc thai đủ tháng hoặc trong thời kỳ chuyển dạ, thuốc có thể tác dụng xấu đến chuyển dạ hoặc đến đẻ sau khi sinh (Phụ lục 2 và 3). Nếu đang thời kỳ cho con bú, một số thuốc có thể gây hại cho trẻ, một số có thể không ảnh hưởng, nhưng một số thuốc có thể làm mất sữa (thí dụ bromocriptin) (Phụ lục 3).
- Người cao tuổi cần được chăm sóc và quan tâm đặc biệt. Một số thuốc có tỷ lệ lợi ích/tác hại thay đổi ở người cao tuổi, do đó cần phải thường xuyên đánh giá lại và loại bỏ những thuốc không tác dụng. Hệ thống thần kinh ở người cao tuổi thường tăng nhạy cảm với nhiều loại thuốc dùng thông thường, như thuốc giảm đau có thuốc phiện, benzodiazepin, thuốc chống loạn thần, chống Parkinson, do vậy các thuốc này phải dùng thận trọng. Một số cơ quan khác cũng dễ nhạy cảm với tác dụng của thuốc như chống tăng huyết áp và thuốc giảm đau không steroid. Nhưng ảnh hưởng quan trọng nhất của tuổi cao là giảm hệ số thanh thải của thận. Nhiều người bệnh cao tuổi thường bài tiết thuốc chậm và rất nhạy cảm với các thuốc độc cho thận. Chuyển hoá của một số thuốc có thể bị giảm. Những thay đổi về dược động học có thể làm tăng đáng kể nồng độ thuốc ở các mô ở người cao tuổi. Với người cao tuổi, người thầy thuốc trước hết bao giờ cũng phải tự hỏi thuốc định kê đơn có thực sự cần không? Chỉ nên kê một số thuốc đã biết rõ tác dụng, quen dùng cho người cao tuổi. Liều dùng thường phải giảm so với người trẻ và thường bắt đầu bằng 50% liều người lớn. Các thuốc trình bày trong quyển sách này đều đề cập đến liều người cao tuổi, nếu không ghi rõ có nghĩa là liều chưa được xác định, thầy thuốc khi dùng phải thận trọng.
- Người có tổn thương thận.
- Người có tổn thương gan.

Tương tác thuốc: Khi 2 hoặc nhiều thuốc dùng cùng một lúc có thể có tác dụng độc lập hoặc ảnh hưởng lẫn nhau. ảnh hưởng này (tương tác thuốc) có thể làm một thuốc tăng tác dụng hoặc đối kháng lại, hoặc cho một tác dụng khác. Có thể tương tác do dược lực hoặc do dược động học. Tương tác dược lực học thường có thể đoán trước được, dựa vào tính chất dược lý của thuốc và một tương tác xảy ra cho một thuốc có thể xảy ra cho một thuốc cùng họ. Còn tương tác dược động học khó đoán trước và một tương tác xảy ra cho một thuốc, không thể cho rằng sẽ xảy ra cho một thuốc khác cùng họ, trừ khi các đặc tính dược động đã biết tương tự nhau. Tuy nhiên, nhiều tương tác dược động chỉ tác động đến một số ít người bệnh và chỉ gây hậu quả nghiêm trọng cho một số ít người bệnh. Cần thận trọng khi phối hợp nhiều thuốc, đặc biệt đối với các thuốc có chỉ số điều trị thấp (thí dụ phenytoin) và đặc biệt ở người cao tuổi thường có chức năng thận và gan kém. Tác dụng không mong muốn: Cần nhớ thuốc nào cũng có ít nhiều phản ứng bất lợi. Không phải tất cả các tác dụng không mong muốn đó đều có thể ngăn chặn được, nhưng việc lựa chọn thuốc thích hợp có thể hạn chế được phần lớn những tác dụng bất lợi. Kiểm tra tính phù hợp của điều trị bằng thuốc đối với người bệnh: Thầy thuốc phải kiểm tra xem hoạt chất đã chọn, dạng thuốc, liều lượng và cách dùng, thời gian điều trị có phù hợp cho mỗi người bệnh không. Điều trị bằng thuốc phải đáp ứng nhu cầu của từng người bệnh. Kê đơn: Đơn thuốc là mối liên quan giữa thầy thuốc, dược sĩ và người bệnh, cho nên việc kê đơn rất quan trọng để điều trị thành công. Cung cấp thông tin, hướng dẫn và cảnh báo: Cần phải giải thích, ghi chú rõ ràng cho người bệnh. Theo dõi điều trị: Phải theo dõi để đánh giá kết quả, từ đó quyết định ngừng thuốc (nếu người bệnh khỏi) hoặc kê đơn lại, nếu cần. Bước này quan trọng để xây dựng kho dữ liệu thông tin về các tác dụng không mong muốn của thuốc.

GIỚI THIỆU CHUNG
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
BAN GIÁM ĐỐC
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC
CÁC BÁC SĨ
DỊCH VỤ CẤP CỨU
DỊCH VỤ NGOẠI TRÚ
DỊCH VỤ NỘI TRÚ
KHÁM SỨC KHỎE
BẢNG GIÁ DỊCH VỤ
DỊCH VỤ KHÁC
Tin nội bộ
CHẤT LƯỢNG BỆNH VIỆN
KẾ HOẠCH BỆNH VIỆN
HOẠT ĐỘNG BỆNH VIỆN
LỊCH CÔNG TÁC
TUYỂN DỤNG
THƯ CẢM ƠN
BỆNH A-Z
THUỐC A-Z
SỐNG KHỎE
THÔNG TIN Y TẾ
Y HỌC THƯỜNG THỨC
CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ
CHÂN TRỜI Y HỌC RỘNG MỞ
PHƯƠNG THUỐC KỲ DIỆU
DÀNH CHO BỆNH NHÂN
HỒI SỨC CẤP CỨU
CHUYÊN KHOA NỘI
CHUYÊN KHOA NHI
Y HỌC CỔ TRUYỀN
CHUYÊN KHOA SẢN
BỆNH TRUYỀN NHIỄM
CHUYÊN KHOA NGOẠI
CÁC CHUYÊN KHOA KHÁC
CHĂM SÓC ĐIỀU DƯỠNG
Tài liệu hành chính
Tài liệu chuyên môn
VĂN BẢN
BÀI HỌC CUỘC SỐNG
HOÀN THIỆN BẢN THÂN
ĐỌC SÁCH CÙNG BẠN
TIN HỌC NGOẠI NGỮ
KHOA HỌC NGHỆ THUẬT
LỊCH SỬ VĂN HÓA
THƯ GIÃN GIẢI TRÍ

THỰC HÀNH ĐỌC ĐIỆN TIM
XỬ TRÍ NHỒI MÁU CƠ TIM
CẤP CỨU NGỪNG TUẦN HOÀN
HƯỚNG DẪN ĐỌC CT NGỰC
HƯỚNG DẪN ĐỌC XQ NGỰC
BỆNH TIM VÀ THAI SẢN
HƯỚNG DẪN ĐỌC CT Ổ BỤNG
CỤC QL KHÁM CHỮA BỆNH
CẢNH GIÁC DƯỢC
Bộ y tế
BỆNH VIỆN BẠCH MAI
CỤC QUẢN LÝ DƯỢC
THƯ VIỆN HOA SEN