TRUNG TÂM Y TẾ HUYỆN KIM THÀNH

Bệnh viện đa khoa Kim Thành

Trang chủHome | Sitemap | Hỏi đáp Tiếng Việt Tiếng Anh

Cấp cứu 24/7

02203.720.115

Đường dây nóng

0912.272.164

  • 20906_10577_130307071514_5l

Danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác sáng ngời y đức


HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG LÊ HỮU TRÁC SÁNG NGỜI Y ĐỨC



 



 
9 điều Y huấn cách ngôn của Danh Y Hải thường Lãn Ông
 
 
1 - "Phàm người học thuốc, tất phải hiểu thấu lý luận đạo làm người, có thông lý luận đạo làm người thì học thuốc mới giỏi. Khi có chút thì giờ nhàn rỗi, nên luôn luôn nghiên cứu các sách thuốc xưa nay, luôn luôn phát huy biến hóa thâu nhập được vào tâm thấy rõ được ở mắt, thì tự nhiên ứng vào việc làm mà không sợ sai lầm.

2 - Phàm người mời đi thǎm bệnh, nên tùy bệnh cần kíp hay không, mà sắp đặt đi thǎm trước hay sau. Chớ nên vì giàu sang hay nghèo hèn, mà nơi đến trước, chỗ đến sau, hoặc bốc thuốc lại phân biệt hơn kém. Khi lòng mình có chỗ không thành thật, thì khó mong thu được hiệu quả.

3 - Khi xem bệnh cho đàn bà, con gái và đàn bà góa, ni cô cần phải có người nhà bên cạnh mới bước vào phòng mà thǎm bệnh , để tránh hết sự nghi ngờ ; dù cho đến con hát, nhà thổ cũng vậy, phải đứng đắn, coi họ như con nhà tử tế chớ nên đùa cợt mà mang tiếng bất chính, sẽ bị hậu quả vê tà dâm.

4 - Phàm thầy thuốc nên nghĩ đến việc giúp đỡ người, không nên tự ý cầu vui, như mang rượu lên núi, chơi bời ngắm cảnh, vắng nhà chốc lát, nhỡ có bệnh cấp cứu, làm cho người ta sốt ruột mong chờ nguy hại đến tính mệnh con người. Vậy cần phải biết nhiệm vụ mình là quan trọng như thế nào ?

5 - Phàm gặp phải chứng bệnh nguy cấp, muốn hết sức mình để cứu chữa tuy đó là lòng tốt song phai nói rõ cho gia đình người ốm hết trước rồi mới cho thuốc ; lại có khi phải cho không cả thuốc như thế thì thuốc uống nếu có công hiệu thì người ta sẽ biết cảm phục mình ; nếu không khỏi bệnh, cũng không có sự oán trách và tự mình cũng không bị hổ thẹn.


6 - Phàm chuẩn bị thuốc men thì nên mua giá cao, để được thứ tốt. Theo sách Lôi công mà bào chế và cất giữ thuốc men cho cẩn thận. Hoặc y theo từng phương mà bào chế, hoặc tùy thời tùy bệnh mà gia giảm. Khi lập ra phương mới, phải phong theo ý nghĩa của người xưa, chớ nên tự lập ra những phương bừa bãi để thử bệnh. Thuốc sắc và thuốc tán nên có đủ. Thuốc hoàn và thuốc đan nên chế sẵn. Có như thế mới ứng dụng được kịp thời, khi gặp bệnh khỏi phải bó tay.

7 - Khi gặp bạn đồng nghiệp cần nên khiêm tốn hòa nhã, giữ gìn thái độ kính cẩn không nên khinh nhờn. Người hơn tuổi mình thì kính trọng, người học giỏi thì coi như bậc thầy, người kiêu ngạo thì mình nhân nhượng, người kém mình thì dìu dắt họ. Giữ được lòng đức hậu như thế, sẽ đem lại nhiều hạnh phúc cho mình.

8 - Khi đến xem bệnh ở những nhà nghèo túng, hay những người mồ côi, góa bụa, hiếm hoi, càng nên chǎm sóc đặc biệt; vì những người giàu sang, không lo không có người chữa ; còn những người nghèo hèn, thì không đủ sức đón được thầy giỏi, vậy ta để tâm một chút, họ sẽ được sống một đời. Còn như những người con hiếu thảo, vợ hiền, nghèo mà mắc bệnh, ngoài việc cho thuốc, lại tùy sức mình chu cấp cho họ nữa, vì có thuốc mà không có ǎn, thì cũng vẫn đi đến chỗ chết. Cần phải cho họ được sống toàn diện, mới đáng gọi là nhân thuật. Còn những kẻ vì chơi bời phóng đãng mà nghèo và mắc bệnh, thì không đáng thương tiếc lắm.

9 - Khi chữa cho ai khỏi bệnh rồi, chớ có mưu cầu quà cáp, vì những người nhận của người khác cho thường hay sinh ra nể nang, huống chi đối với những kẻ giàu sang, tính khí thất thường mà mình cầu cạnh, thường hay bị khinh rẻ. Còn việc tâng bốc người ta để cầu lợi, thường hay sinh chuyện ; cho nên nghề thuốc là thanh cao, ta càng phải giữ phẩm chất cho trong sạch".





 
8 tội người thầy thuốc cần tránh

- Có bệnh xem xét đã rồi mới cho thuốc, vì ngại đêm mưa vất vả không chịu thăm mà đã cho phương, đó là tội lười.

- Có bệnh cần dùng thứ thuốc nào đó mới cứu được nhưng sợ con bệnh nghèo túng không trả được vốn nên chỉ cho thuốc rẻ tiền, đó là tội bủn xỉn.

- Khi thấy bệnh chết đã rõ, không bảo thực lại nói lơ mơ để làm tiền, đó là tội tham lam.

- Thấy bệnh dễ chữa nói dối là khó chữa, dọa người ta sợ để lấy nhiều tiền, đó là tội lừa dối.

- Thấy bệnh khó đáng lẽ nói thực rồi hết lòng cứu chữa nhưng lại sợ mang tiếng không biết thuốc, vả lại chưa chắc chắn đã thành công, không được hậu lời nên không chịu chữa đến nỗi người ta bó tay chịu chết, đó là tội bất nhân.

- Có trường hợp người bệnh ngày thường có bất bình với mình khi mắc bệnh phải nhờ đến mình liền nghĩ ra ý nghĩ oán thù không chịu chữa hết lòng, đó là tội hẹp hòi.

- Thấy kẻ mồ côi goá bụa, người hiền, con hiếm mà nghèo đói ốm đau cho là chữa mất công vô ích không chịu hết lòng, đó là tội thất đức.

- Lại như xét bệnh còn lơ mơ, sức học còn non đã cho thuốc chữa bệnh, đó là tội dốt nát.


Hải Thượng Lãn Ông: Tấm gương sáng về y đức, y đạo, y thuật của y học cổ truyền Việt Nam

 
TS. Nguyễn Quốc Triệu (Cựu Bộ trưởng Bộ Y tế)
 

 
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử vẻ vang đấu tranh liên tục chống thiên tai và ngoại xâm để dựng nước và giữ nước. Trong quá trình đó, các dân tộc Việt Nam đã tạo dựng nền văn hóa mang nhiều nét đặc sắc và độc đáo, để lại cho đời sau những di sản tốt đẹp trong đó có di sản quý báu về y dược cổ truyền, đã và đang giữ vai trò to lớn trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
 
 
Nền y tế Việt Nam tự hào có Danh y Hải Thượng Lãn Ông (1720 - 1791), nêu gương sáng tài cao đức rộng. Nhằm vinh danh và kế thừa tấm gương lớn, từ năm 2000, chúng ta đã chính thức lấy ngày húy kỵ của danh y Hải Thượng Lãn Ông, 15 tháng Giêng (lịch dân tộc) làm Ngày truyền thống y dược học cổ truyền Việt Nam; và năm nay là kỷ niệm thứ 217 ngày danh y tạ thế, cũng là kỷ niệm thứ 9 Ngày truyền thống Y Dược học cổ truyền Việt Nam. Nhân đây cũng xin nói thêm về sự kiện trùng hợp đầy ý nghĩa: Ngày kỷ niệm 15 tháng giêng (lịch dân tộc) hàng năm thường rất gần với Ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/2 (dương lịch). Sự trùng hợp về thời gian làm đậm thêm mối quan hệ kết hợp y học hiện đại và y học cổ truyền.
 
Đại danh y Lê Hữu Trác, còn có tên khác là Lê Hữu Huân, sau lấy hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, sinh ngày 27/12/1720. Nguyên quán thôn Văn Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hưng Yên (nay thuộc xã Liêu Xá, Yên Mỹ, Hưng Yên). Dòng họ Lê Hữu ở Liêu Xá đã đóng góp cho đất nước 7 tiến sĩ, 5 giải nguyên, 20 tú tài, 1 quận công, 1 tước hầu, 6 tước bá,... Gia đình Lê Hữu Trác vốn là một danh gia vọng tộc, nổi tiếng cao khoa hiển hoạn. Ông nội, bác ruột, cha và các chú, anh em đều đỗ đạt cao, từng giữ nhiều trọng trách bản triều. Thân sinh của Lê Hữu Trác là Tiến sĩ Lê Hữu Mưu, làm quan đến chức Thượng thư Bộ Công, sau được truy phong chức Thượng thư. Anh trai là Lê Hữu Kiểm, đậu Tam Giáp Tiến sĩ. Mẹ là Bùi Thị Thường, quê xứ Bàu Thượng, xã Tịnh Diện (nay là xã Sơn Quang), huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh.
 
Sinh ra và lớn lên trong giai đoạn lịch sử đầy biến động vì nạn tranh giành quyền lực dưới thời Vua Lê - Chúa Trịnh. Ông thấu hiểu nỗi cơ hàn của người dân lao động nghèo khổ trong cảnh loạn lạc, đói rét, bệnh tật. Với chí khí của “trai thời loạn”, ông muốn bứt mình ra khỏi “chốn thư phòng” để “giao du tìm bạn đồng tâm”. Ông đã từng học binh thư, luyện võ, đăng lính. Thống soái của Chúa Trịnh nể tài ông, bao phen tiến cử nhưng vì chán ghét cảnh binh đao, ông tìm mọi cách từ chối. Năm 1746 ông trở về quê ở Hương Sơn nuôi mẹ và học nghề thuốc. Lúc này ông đã gần 30 tuổi.
 
Vốn sẵn uyên thâm về thiên văn, địa lý, nhân sự và tài trong pháp thuật âm - dương nên ông học thuốc rất nhanh. Ông luôn tâm niệm: “Đạo làm thuốc là một nhân thuật chuyên lo tính mạng con người; phải lo cái lo của con người, vui cái vui của người, chỉ lấy việc chữa bệnh cứu người làm nhiệm vụ của mình, không được mưu lợi, kể công”. Và suốt quãng đời hơn 40 năm còn lại, ông phấn đấu không mệt mỏi để thực hiện điều tâm niệm cao cả của mình “Tôi đã hiến thân cho nghề thuốc nên lúc nào cũng dồn hết khả năng trước thuật rộng rãi để dựng nên ngọn cờ đỏ thắm giữa y trường”.
 
Là một người thầy thuốc, trước hết ông đề cao y đức. Ông nói: “Tôi thường thấm thía rằng: Thầy thuốc là người có nhiệm vụ bảo vệ sinh mạng người ta: Lẽ sống chết, điều phúc họa đều ở trong tay mình xoay chuyển, lẽ nào người có trí tuệ không đầy đủ, hành động không chu đáo, tâm hồn không thoáng đạt, trí quả cảm không thận trọng mà dám theo đòi bắt chước học nghề y”.
 
Ông tự đặt ra cho người thầy thuốc chân chính tám chữ “Nhân - Minh - Đức - Trí - Lượng - Thành - Khiêm - Cần (tức là nhân ái, sáng suốt, đức độ, hiểu biết, rộng lượng, thành thực, khiêm tốn, cần cù), đồng thời tránh 8 tội: lười biếng, keo kiệt, tham lam, dối trá, dốt nát, bất nhân, hẹp hòi, thất đức. Ông kịch liệt phê phán những người lợi dụng ngành y để mưu lợi: “hoặc bắt bí người ta trong đêm mưa gió khó khăn... bệnh dễ thì trộ là bệnh khó, bệnh khó thì dọa là bệnh chết, dối mình để mưu cầu cho mình... Đối với kẻ giàu sang thì sốt sắng để mong được lợi; đối với người nghèo khó thì lạnh nhạt, thờ ơ...”.
 
Suốt đời Hải Thượng Lãn Ông tận tụy với người bệnh, không quản đêm hôm mưa gió, đường sá xa xôi cách trở hay khi bản thân đang mệt mỏi, ốm đau..., ông đều đến tận nơi, xem bệnh cụ thể rồi mới cho thuốc. Bệnh nặng cần mua thuốc tốt, ông sẵn sàng bỏ tiền để cứu bệnh nhân dù biết rằng sau này bệnh nhân không có khả năng hoàn trả. Ông luôn thận trọng và hy sinh cả những thú vui riêng tư “mang rượu trèo non, chơi bời ngắm cảnh” vì “nhỡ khi vắng mặt, ở nhà có người đến cầu bệnh nguy cấp thì phụ lòng trông mong của họ, lỡ nguy hại đến tính mạng...”. Ông hết lòng thương yêu người bệnh, đặc biệt đối với tầng lớp nghèo khổ, vợ góa con côi bởi vì Hải Thượng Lãn Ông biết rằng “kẻ giàu sang không thiếu gì người chăm sóc, người nghèo hèn không đủ sức để mời danh y”. Ông tôn trọng nhân cách của người bệnh và luôn nghiêm khắc với bản thân mình, giữ tâm hồn luôn trong sáng: “Khi thăm người bệnh phụ nữ hoặc ni cô, gái góa phải có người khác bên cạnh... để ngăn ngừa sự ngờ vực. Dù đến hạng người buôn son, bán phấn cũng phải giữ cho lòng người ngay thẳng, coi họ như con nhà tử tế, chớ nên đùa cợt, chớt nhả mà mang tiếng bất chính và chuốc lấy tà dâm”.
 
 
Tượng Hải Thượng Lãn Ông.
 
Hải Thượng Lãn Ông là hiện thân của một nhân cách lớn về tấm lòng cương trực, chí khí thanh cao, không màng công danh, phú quý, không nịnh hót kẻ giàu sang “Ngay cả khi chữa cho ai khỏi bệnh rồi chớ có mưu cầu quà cáp, vì nhận quà của người ta thường sinh ra nể nang huống hồ đối với kẻ giàu sang tính khí thất thường, mình cầu cạnh dễ bị khinh thường”. “Nghề thuốc là thanh cao nên phải giữ phẩm chất cho trong sạch”.
 
Hải Thượng Lãn Ông luôn là người biết tự trọng, khiêm tốn học hỏi không tự cao tự đại, luôn tôn trọng giúp đỡ đồng nghiệp. Ông là một tấm gương mẫu mực cho thuật xử thế: “Khi gặp người cùng nghề cần khiêm tốn, hòa nhã, cẩn thận, chớ nên coi rẻ khinh thường, đối với người cao tuổi thì nên cung kính; đối với người có học thì nên tôn thờ như bậc thầy; đối với người cao ngạo thì nên nhún nhường; đối với người non nớt thì nên dìu dắt; giữ lòng như vậy là điều phúc lớn”.
 
Ngoài việc để cao y đức, Hải Thượng Lãn Ông còn là người đầu tiên trong lịch sử y học Việt Nam đặt nền móng xây dựng y thuật. Trong quá trình làm thuốc, ông đã để rất nhiều thời gian viết cuốn Y Tông Tâm Lĩnh và dạy học. Ông không những chu đáo, thận trọng trong khám chữa bệnh, kê đơn bốc thuốc, mà còn quan tâm đặc biệt đến các trước tác.
 
Về y thuật: Hải Thượng Lãn Ông cho rằng muốn làm thầy thuốc giỏi phải học tập không ngừng. Ông tiếp thu kinh nghiệm của người xưa một cách có chọn lọc, linh hoạt, sáng tạo, không hề rập khuôn máy móc. Từ đó ông có quan điểm về nhận định bệnh tật và phương pháp điều trị sáng tạo phù hợp với đặc điểm phong thổ, khí hậu và đặc điểm của con người Việt Nam.
 
Trong suốt cuộc đời làm thuốc của mình, ông đúc kết tinh hoa của y học nhân loại và y dược cổ truyền Việt Nam, ông đã để lại cho đời sau một bộ sách đồ sộ quý giá là bộ “Hải Thượng Lãn Ông Y Tông Tâm Lĩnh” bao gồm 28 tập, 66 quyển. Trong đó, ông đã đề cập đến toàn bộ các vấn đề nội khoa, ngoại khoa, phụ khoa, nhi khoa, thương khoa, truyền nhiễm, cấp cứu, y đức, vệ sinh phòng bệnh, phương pháp nuôi dưỡng, chế biến các món ăn kể cả việc nuôi tằm dệt vải... Ông đã đúc kết hàng ngàn bài thuốc hay và phát hiện bổ sung hơn 350 vị thuốc mới để đồng nghiệp đương thời và các thế hệ mai sau cùng nghiên cứu, sử dụng.
 
Cuộc đời của Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác là hình ảnh cao đẹp của người thầy thuốc với kiến thức uyên thâm, với tinh thần trách nhiệm cao cả trong nghề nghiệp, lòng nhẫn nại, tận tâm, đức hy sinh và lòng thương yêu người bệnh vô bờ bến. Ông thật xứng đáng là người đã dựng “ngọn cờ đỏ thắm” trong nền y học nước nhà, là tấm gương sáng chói về y đức, y đạo, y thuật cho đời sau noi theo.
 
Kỷ niệm 217 năm ngày mất của Hải Thượng Lãn Ông, với truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Tôn sư trọng đạo” chúng ta là những cán bộ y tế, y dược cổ truyền nguyện noi theo gương sáng của danh y về y đức, y đạo, y thuật. Kế thừa, bảo tồn và phát triển nền y dược cổ truyền Việt Nam, kết hợp với y học hiện đại, xây dựng nền y học Việt Nam: hiện đại, khoa học, dân tộc và đại chúng.
 
Năm nay, năm 2008 là năm bản lề của kế hoạch 5 năm 2005-2010 hướng tới Lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long Hà Nội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, cán bộ ngành y tế chúng ta nguyện hứa: với truyền thống vì nhân dân phục vụ, phấn đấu thực hiện tốt các chỉ tiêu kế hoạch đề ra, tăng cường công tác phòng chống dịch bệnh, phấn đấu không để dịch bệnh xảy ra; Nâng cao năng lực và chất lượng hệ thống khám chữa bệnh, đẩy mạnh các hoạt động khác nhằm thực hiện tốt sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ, nâng cao sức khỏe nhân dân, phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
 
(Nguồn: Sức khỏe & Đời sống)
 
  • « Quay lại


  • Các tin liên quan khác

    Đăng nhập nội bộ

    Phác đồ điều trị

    THÔNG TIN HỮU ÍCH

    Tuyển dụng nhân sự

    Góc tri ân

    Liên hệ gửi câu hỏi

    Mã xác nhận    Captcha
    Nhập mã xác nhận
     

    Video

    Thư viện ảnh

    Thư viện ảnh

    Liên kết website

    HỖ TRỢ TRỰC TUYẾN

    Hỗ trợ trực tuyến

    Hotline : 02203.720.115

    Tư vấn 2
    Tư vấn 1

    Thống kê truy cập